Dành cho Logos quảng cáo
Trang giải trí của người Việt

Nhân vật lịch sử

NGỌC HÂN CÔNG CHÚA (玉忻公主) - Bài 2
Hồ Quang
24.12.2022 15:07:31

Tượng thờ Ngọc Hân Công Chúa tại đền Ghềnh
Tiếp theo
NGỌC HÂN CÔNG CHÚA (玉忻公主)
BẮC CUNG HOÀNG HẬU (北宮皇后)
...
Quan Lễ Bộ Đại Thần Phan Huy Ích có làm bài văn tế để vua Cảnh Thịnh đọc trong tang lễ của bà với đầu đề “Kỷ Mùi Đông, nghĩ Ngự Điện Vũ Hoàng Hậu tang quốc âm văn” (Mùa Đông năm Kỷ Mùi (1799), nghĩ giúp nhà vua (Cảnh Thịnh) bài văn quốc âm để tế đi
“Than ôi! Nguyệt in phách quế,
Mái trường Thu vừa rạng vẻ làu làu,
Sương ủ hồn hoa,
Niềm thương uyên chợt rơi mùi thoảng thoắng.
Nẽo chân du quanh cõi biết tìm đâu,
Niềm vĩnh mộ bâng khuâng hằng trạnh tưởng.
Giọt ngân phái câu nên vẻ quí,
Duyên hải cầu thêm giúp mối tu tề,
Khúc thư châu dội sánh tiếng hòa,
Khuôn nội tắc đã gây nền nhân nhượng.
Lanh lanh bút đỏ đua thơm,
Chói chói sách vàng rực sáng,
Hồ đỉnh ngậm ngùi cung nỏ,
Sắp rắp chìm châu nát ngọc đã từng nguyền,
Cung khôn bịn rịn gối nao,
Ấp vì vun quế quén lan nên phải ngượng.
Tự sung linh hay gìn giữ hiếu tư.
Vâng tứ đức cũng thỏa vui vinh dưỡng.
Noi tiên chí vậy dốc bề trí kính,
Dấu sân huyên đôi chốn sum vầy,
Cảm mẫu nghi mà thay buổi thừa hoan,
Vẽ áo vải xưa kia mường tượng.
Mong thể thiên tùng chập thân cao,
Kiềm máy máy so le khôn lượng.
Sương nắng hấy rầy ngăn trướng thúy,
Băn khoăn cơn bữa ngọc lò đan,
Gió mây xây phút ruỗi xe loan.
Khởi diễn nẽo non bồng vườn lãng.
Lễ theo tình trọn cuộc mới cam,
Ðức so thọ mực câu chưa đáng.
Dù ngự đoái di thể sửa măng vài chút,
Lòng quyến linh đành có vẻ đức vang thêm,
Dù ngự cảm cố khư hương khói đôi phen,
Lệ áp tuất vốn còn nhuần gội xuống,
Ấy tờc vuông hằng chăm một tín thành,
Ắt mấy chút cũng thờu trên tinh sảng.
Ôi! Bóng quanh nước mây thoi đưa ngày tháng.
Chồi tiên lan nhường rã rợi bên thềm,
Dấu cử vũ bỗng lạnh lùng dưới trướng.
Nguyễn cũ hẳn nay đã trọn vẹn,
Bên Ðan lăng quanh quất mạch liên châu.
Khí thiêng dõi để dặc dài.
Trong thanh miếu ngọt ngào mùi quán sưởng.
Rày nhân gác bánh liễu dư,
Bày hàng thử trượng.
Nhìn hâm vệ hành ngưng mọi vẽ,
Ðường u hiển xa lìa,
Dâng điện diên gọi vái mấy lời,
Mối luân Thương tỏ sáng.
Hỡi ôi!
Cảm thay!
Sở dĩ người viết đưa bài văn tế này vào đây là muốn minh xác về ngày giờ ra đi vĩnh viễn của bà Ngọc Hân: vào năm Kỷ Mùi (1799), có nghĩa trước lúc Gia Long chiếm Phú Xuân khoảng 2 năm (mất 1799, đến 1801 Phú Xuân mới rơi vào tay Nguyễn Phúc Ánh). Do đó những huyền thoại nói rằng bà Ngọc Hân về làm vợ vua Gia Long là không thực, và không thể xảy ra (sẽ viết rõ ràng ở phần dưới). Xác nhận điều này có thể đem so sánh ngày mất của bà Ngọc Hân ở bài văn tế (do vua Cảnh Thịnh đọc) với những ghi chép trong tộc phả họ Nguyễn Ngọc… làng Phù Ninh (Bắc Ninh) thấy rất trùng khớp. Riêng hai người con (Nguyễn Quang Ðức, Nguyễn Thị Ngọc Bảo) của bà, khi bị Nguyễn Ánh bắt (Lê Tộc Phả Ký), mới 12 và 10 tuổi đều bị hành hình. Về ngày chết của Quang Đức và Ngọc Bảo, tộc phả họ “Nguyễn Đình…” ghi như sau: “ngày 18 tháng 11 năm Tân Dậu (23 tháng 12 năm 1801) hoàng tử Nguyễn Quang Đức mất (lúc đó được 10 tuổi), đến ngày 17 tháng Tư năm Nhâm Tuất (18 tháng 5 năm 1802), công chúa Ngọc Bảo mất, mới 12 tuổi”. |
Theo “Biệt Lục" của tộc phả “Nguyễn Đình…”, thì vào năm 1804, bà Nguyễn Thị Huyền lúc nầy đã 51 tuổi (năm 1786, vua Lê Hiển Tông mất, bà Huyền mới có 33 tuổi), vì thương con gái (Ngọc Hân) và 2 cháu ngoại (Ngọc Bảo và Quang Đức) bị chết yểu tại Phú Xuân, nên thuê người vào lấy trộm hài cốt (3 mẹ con Ngọc Hân) đưa về bản dinh (tức dinh Thiết Lâm của bà Huyền). Ngày 16 tháng 7 năm 1804, bà Huyển đã cho cải táng (hài cốt bà Ngọc Hân, phụ táng hoàng tử Nguyễn Quang Đức bên trái, công chúa Ngọc Bảo bên phải). Nơi này nay là bãi Cây Đại hay bãi Đầu Voi ở đầu làng Nành, xã Phù Ninh (hiện nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội). GS. Chu Quang Trú đã dẫn chứng trong “Đại Nam Thực Lục” có nói đến việc này: “khoảng đầu năm Gia Long, ngụy Đô Đốc tên là Hài, đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù Ninh. Thị huyện ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả, đổi lại họ tên, để làm mất dấu tích”. Mọi việc tưởng êm thắm, không ngờ đến thời vua Thiệu Trị (vào năm 1842), miếu thờ 3 mẹ con Ngọc Hân bị đổ nát… Một ông tú (không rõ tên) người làng Nành, biết bà “Chiêu Nghi họ Lê” (Bà Nguyễn Thị Huyền) có rất nhiều công lao đối với dân địa phương, nên đứng ra quyên góp tiền tu sửa lại ngôi miếu gọi là chút lòng đáp nghĩa. Tu sửa xong, viên “phó tổng” (“Tổng” đơn vị hành chánh cấp “làng” nhưng lớn hơn) người cùng làng với ông tú biết chuyện nầy, vốn sẵn hiềm khích, hắn ta đến cửa quan tố giác ông Tú đang lo việc thờ tự “ngụy Huệ”. Với bằng chứng rõ ràng, triều đình Huế (thời vua Thiệu Trị) liền ra lệnh đập phá ngôi miếu, cùng cho quật 3 ngôi mộ (mẹ con Ngọc Hân) lấy hài cốt “quăng” hết xuống sông… Dĩ nhiên không chỉ ông Tú bị ghép vào trọng tội, mà còn liên lụy đến viên Tổng Đốc Bắc Ninh (Nguyễn Văn Giai) cũng bị giáng chức luôn.
“Chính Sử Triều Nguyễn” chép: “Nhâm Dần, Thiệu Trị, năm thứ 2 (1842), mùa Thu, tháng Bảy: Tỉnh Bắc Ninh có dân xã Phù Ninh ngầm thờ ngụy quỷ. Việc bị phát giác, vua sai hủy bỏ đền thờ. Nguyên người xã ấy là Nguyễn Thị Huyền, làm cung nhân của vua Lê Hiển Tông, có người con gái là Ngọc Hân sau gả cho ngụy (Nguyễn Huệ) sinh được 1 trai 1 gái. Ngọc Hân chết, trai gái cũng chết non cả. Khoảng đầu năm Gia Long, ngụy đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù Ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả dối, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích. Tới đây, việc ấy phát giác, vua sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy đi”.
Sách “Mấy Vấn Đề Về Vua Gia Long” của GS. Trần Quốc Vượng, chép:
“Tôi được đọc gia phả nhà họ Nguyễn ở làng Nành (nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội) quê bà Nguyễn Thị Huyền, mẹ bà Ngọc Bình, nhũ mẫu của bà Ngọc Hân. Gia phả có đoạn chép: “Bà cụ Nguyễn Thị Huyền – qua con gái bà là bà Ngọc Bình – có làm đơn xin cải táng mộ bà Ngọc Hân (và 2 con bà) về Bắc, về quê bà. Vua Gia Long đồng ý. Tiểu sành đựng xương cốt bà Ngọc Hân được chở bằng thuyền về làng Nành và được xây mộ hẳn hoi. Mãi đến thời Thiệu Trị (1840-1847) có một tên cường hào ở làng Nành vì có sự choảnh chọe ngôi thứ gì đó với dòng họ Nguyễn nên làm đơn vu cáo họ Nguyễn đã “lợi dụng” gì đó về ngôi “mả ngụy” Ngọc Hân, cấp trên nó quan liêu hay ăn đút lót gì đó – không biết – phê vào đơn cho phép đào mả Ngọc Hân quăng xuống sông Nhị Hồng…”.
Hiện nay ở Gia Lâm có đền Ghềnh, theo tương truyền đền nầy rất linh, vì ngày xưa nơi đây hài cốt của bà Ngọc Hân đã trôi dạt vào và được dân vớt lên mai táng lại.
Trở lại chuyện Bắc Cung Hoàng Hậu:
Trong văn chương bác học bình dân Việt Nam, tục ngữ, ca dao chiếm giữ vai trò chính yếu, tuy không thành văn, nhưng lại qua cách truyền khẩu thâm nhập sâu vào tim óc của từng con người, nó lưu truyền từ đời này sang đời khác, để rồi tự cải biến theo đúng phong tục tập quán địa phương rồi trở thành nội dung trữ tình, mộc mạc, và rất hiện thực... Chúng ta không lạ gì những lời ca với các câu hò đối đáp thử tài để nam nữ tìm hiểu nhau… để sau đó nguyện ước cùng sống bên nhau đến trọn đời. “Gái Bắc Ninh” với làn điệu “Quan Họ” thì không nơi nào khác có thể sánh bì. Bắc Ninh chính là quệ mẹ của công chúa Ngọc Hân vậy.
Lịch sử Việt Nam, các sử gia nói nhiều về Ngọc Hân, có lẽ một phần vì bà được kết duyên với vua Quang Trung, một mối tình lộng lẫy, huy hoàng, chấn động, mà lúc đầu ai cũng tưởng cuộc hôn nhân nầy chỉ là một thỏa thuận mang tính hòa nghị. Nhưng dần dần về sau, người đời đã nhận biết đây chính là cuộc tình nồng thắm (trai tài gái sắc) giữa người đẹp tuyệt vời Bắc Ninh (Ngọc Hân) với người hùng “áo vải cờ đào” Tây Sơn (Nguyễn Huệ).
Mười sáu tuổi, lần đầu tiên rời cung vàng điện ngọc để về sống với phu quân bên bờ sông Nhị, có lẽ sự ngượng ngùng, e lệ, không tránh khỏi của một thiếu nữ tuổi vừa độ trăng tròn, nhưng tất cả đều vượt qua… Họ dần dần trở nên thân thiết, xóa bỏ mặc cảm cách biệt tuổi tác, sống hết mình với tình yêu đang có… Đó là thời điểm của những năm 1786 cho đến 1792.
Từ khi về làm vợ Bắc Bình Vương, bà rất được chồng tin tưởng và đến khi trở thành Hoàng Hậu, bà được vua Quang Trung giao hết việc coi sóc nội cung, nhất là việc dạy dỗ các con của vua. Đê đáp lại sự tin tưởng nầy, bà xem tất cả các công chúa, hoàng tử đều là con chính của bà, nên bà dùng tình thương thật đồng đều mà dạy dỗ chúng. Việc trở ngại lớn nhất cũng là sự đau lòng nhất đối với bà là việc đứng ra làm trung gian hòa giải giữa triều đình Nhà Lê và chồng. Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí, thì ý của bà muốn lập Lê Duy Cận (anh trai của bà) lên ngôi thay vua cha vừa băng hà. Nguyễn Huệ với tư cách Nguyên Soái Dực Chính Phù Vận Uy Quốc Công (do vua Lê Hiển Tông phong) vừa là Phò Mã, vừa là người cứu Nhà Hậu Lê (trung hưng) ra khỏi sự chuyên quyền của Chúa Trịnh, nên việc lập vua mới thì ý kiến của ông rất quan trọng, và ông đã theo ý của vợ (Ngọc Hân Công Chúa). Hội đồng hoàng tộc Nhà Lê cùng các quan đại thần trong triều đình phản đối, không tiếc lời sỉ vả bà Ngọc Hân là người vong ơn, chỉ biết có Tây Sơn chứ không nghĩ gì đến cơ đồ Nhà Lê, nên mới không tuân theo di chúc của tiên đế (theo di chúc thì người nối ngôi là Hoàng Tôn Lê Duy Kỳ, gọi Ngọc Hân bằng cô ruột). Lễ đăng quang phải ngưng, rốt cuộc Ngọc Hân phải theo ý di chúc của vua cha, quay về năn nỉ với chồng (Nguyễn Huệ) phải lập Lê Duy Kỳ lên ngôi… Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ rất bực mình, vì trước đó ông đã nghe lời vợ mà cho lập Lê Duy Cận, bây giờ cũng phải nghe lời vợ mà lập Lê Duy Kỳ thật là “tiền hậu bất nhất” không uy nghiêm gì cả... nhưng vì yêu thương vợ, ông đành dằn lòng chấp nhận. Lê Duy Kỳ lên ngôi lấy hiệu là Chiêu Thống (thường gọi là vua Lê Chiêu Thống, vị vua cuối cùng của Nhà Hậu Lê, thời Lê trung hưng). Trong vụ nầy “công chúa Ngọc Hân” là người chịu tai tiếng nhiều nhất, chỉ vì muốn anh mình làm vua; đối với Nguyễn Huệ, ông ta không màng gì đến sự tranh chấp nội bộ của triều đình, bổn phận làm Phò Mã thì giúp gì cho Công Chúa được thì giúp… Nhìn lại trong vụ này, bà Ngọc Hân đã hoàn toàn bị triều đình Nhà Lê không chấp nhận, loại bà ra khỏi hoàng tộc. Vua Quang Trung cùng những đại thần Tây Sơn hiểu được “nỗi lòng” nầy, nên tìm mọi cách chứng tỏ cho bà biết là họ không còn để ý đến những chuyện đã qua của cung đình Nhà Lê.
Xem tiếp Bài 3
HyperLink
Cùng chủ đề
© Copyright 2012    http://vietnamsuhoc.com/    All right reserved.   E-mail:info@vietnamsuhoc.com    Designed by Ho Quang.